Xét về bản chất thì những máy vi tính ngày nay khác chút ít với thiết kế gốc ban đầu của IBM như : tập trung những thành phần , những thiết bị bên trong và bên ngoài bằng những đường dữ liệu tốc độ cao để chuyển dữ liệu đến ( input ) hoặc truyền dữ liệu đi ( output ) . Người ta gọi những đường truyền dữ liệu như vậy là Bus , chúng nối những thành phần bên trong và bên ngoài máy vi tính lại với nhau .
Bus nhanh nhất là đường dữ liệu kết nối giữa bộ vi xử lí với bộ nhớ Cache L1 , nằm bên trong CPU . Bus nhanh tiếp theo là Bus hệ thống , chúng nối bộ vi xử lí với bộ nhớ ( nối với bộ nhớ cache L2 và bộ nhớ RAM hệ thống ) .
Đối với những thiết kế của Intel cho tới trước năm 1998 , Bus hệ thống có độ rộng 64-bit và có tốc độ xung nhịp đạt tới 66MHz , khi Pentium II xuất hiện thì tốc độ của nó là 100MHz . CPU không truyềng tin trực tiếp tới bộ nhớ hệ thống mà thông qua Chip trung gian của Phần điều khiển hệ thống , mà chúng được quản lí bởi Host Bus và những Bridge đó là Bus PCI .
Bộ vi xử lí dùng cấu trúc DIB (Dual Independent Bus) , được Intel giới thiệu cùng với Pentium II thay thế Bus hệ thống Single bằng 02 Bus riêng biệt : một để truy cập vào bộ nhớ chính của hệ thống RAM và một để truy cập vào bộ nhớ Cache L2 .
Chúng được gọi tên tương ứng là FSB ( Frontside Bus ) và BSB ( Backside Bus ) .
Một khái niệm quan trọng dựa trên cấu trúc mở trong Bus mở rộng đơn giản để dễ dàng kết nối với những thành phần hoặc các thiết bị khác . Gần 20 năm sau khi ra đời nó vẫn còn có khả năng kết nối với với những Card cắm thêm vào PC . Trong khi đó sẽ có những kiểu Bus sẽ mất đi theo thời gian thì bên cạnh đó sẽ có những kiểu Bus xuất hiện để phù hợp với những thiết bị hiện thời .
2. Bus ISA
Khi xuất hiện lần đầu tiên trong PC , Bus ISA 8-bit với tốc độ xung nhịp 4.77MHz , cùng tốc độ với bộ vi xử lí . Nó được cải tiến sau một năm và trở thành một tiêu chuẩn Bus công nghiệp ISA (Industry Standard Architecture) vào năm 1982 cùng với cấu trưc bên trong máy vi tính IBM PC/AT dùng bộ vi xử lí 80286 và Bus sử dụng dữ liệu 16-bit , Bus ISA có tốc độ xung nhịp là 6MHz và sau cùng là 8MHz .
Bus ISA kết nối sử dụng 16-bit dữ liệu và tốc độ xung nhịp 8MHz . Nó có tốc độ truyền dữ liệu về mặt lí thuyết là 16MBps . Tốc độ này giảm xuống còn một nửa vì chu kì xung nhịp đồng hồ vừa được sử dụng trong kiểu địa chỉ ( address )vừa được sử dụng trong kiểu dữ liệu ( data ) nên trên thực tế tốc độ này không vượt quá 5MBps – nó vần còn thành công trong nhiều kiểu thiết bị ngoại vi và một số lớn những card mở rộng vẫn còn sử dụng cho tới sau năm 1990 .
Bộ vi xử lí có tốc độ ngày càng nhanh hơn , độ rộng của đường truyền dữ liệu ngày càng lớn hơn , thiết kế ISA cơ bản không thể đáp ứng được nhu cầu công việc .
Sự thay đổi cấu trúc Bus đầu tiên phải nói đến chuẩn mới MCA (Micro Channel Architecture) do IBM phát triển .
Bên cạnh đó chuẩn EISA (Extended ISA ) do những nhà sản xuất cạnh tranh với IBM phát triển để làm đối trọng với IBM .
Mặc dầu cả hai đều chạy với tốc độ xung nhịp đồng hồ 10MHz và 8 MHz tương ứng và có khả năng có đường truyền dữ liệu 32-bit và có tốc độ truyền dữ liệu 20MBps nhưng EISA lại tương thích với card ISA còn MCA lại không tương thích với ISA.
3.Local Bus
Mainboard cho bộ vi xử lí Intel 80286 có khả năng chạy những khe cắm mở rộng và bộ vi xử lí chạy với tốc độ xung nhịp khác với tốc độ xung nhịp của Bus . . Khi CPU 80386 được giới thiệu vào năm 1987 thì trên Mainboard cung cấp 02 bus hệ thống , ngoài Bus thông thường như :ISA , EISA hoặc MCA , còn có thêm Bus hệ thống 32-bit để kết nối bộ vi xử lí với bộ nhớ chính của hệ thống RAM . Cùng với sự phát triển của hệ điều hành GUI (Graphical User Interface) có giao diện đồ hoạ tương tác với người sử dụng ( như MS Windows ) và yêu cầu cần thiết đối với hệ thống đồ hoạ nhanh nên có phát sinh khái niệm Local Bus bởi vì tốc độ cao và độ phức tạp khi xử lí .
Hiệu quả đầu tiên để tăng tốc độ tính toán được ưu tiên hàng đầu của nhà sản xuất Card màn hình cùng với phần điều khiển ổ cứng vào bên trong Bus hệ thống . Vào đầu năm 1990 một nhóm nhà sản xuất Chipset card màn hình và Adapter gọi là VESA (Video Electronics Standards Association) đưa ra chuẩn gọi là VESA Local Bus ( VL – Bus ).
VL-Bus làm việc tốt với nhiều loại Card và chiếm ưu thế nhất đối với card màn hình và phần điều khiển IDE .
VESA khuyến cáo nên sử dụng 02 khe cắm có thể dùng xung nhịp đồng hồ tới 33MHz hoặc 03 thiết bị nếu chúng ta có phần đệm mạch điện từ Bus . Nếu tần số cao hơn hoặc không có nhiều hơn 02 Card VESA được nới với Mainboard thì tốc độ xung nhịp đồng hồ có thể đạt được 50MHz.
Trên thực tế là VL-Bus chạy cùng với tần số như của CPU thì một vấn đề xảy ra khi tần số này tăng lên . Với thiết bị ngoại vi đòi hỏi tốc độ nhanh hơn thì giá thành của VESA Card rất đắt nên rất khỏ để tiếp tục phát triển kiểu Bus này .
4. Bus PCI