Làm thế nào để dùng mỡ tản nhiệt của CPU cho đúng ?

Những bộ vi xử lí làm việc với tốc độ xung nhịp cao nên vấn đề liên quan tới tản nhiệt là vô cùng cần thiết , bởi vì với tốc độ xung nhịp cao thì nhiệt lượng toả ra vô cùng lớn .

  1. Giới thiệu

 Những bộ vi xử lí làm việc với tốc độ xung nhịp cao nên vấn đề liên quan tới tản nhiệt là vô cùng cần thiết , bởi vì với tốc độ xung nhịp cao thì nhiệt lượng toả ra vô cùng lớn .

 Ví dụ khi dùng bộ vi xử lí 486DX2-66 thì nhiệt lượng toả ra khoảng từ 3-6W , trong khi đó bộ vi xử lí Pentium 4 3.8GHz thì nhiệt lượng toả ra là 115W . Trong trường hợp trong máy tính của bạn giải pháp làm mát không tương thích với bộ vi xử lí thì sẽ có vài vấn đề xảu ra một cách ngẫu nhiên như : Khởi động lại máy , treo hệ thống , hoặc giảm tuổi thọ của bộ vi xử lí , thậm trí có thể làm CPU bị cháy trong trường hợp quá nhiệt .

 Một vài giải pháp được đề xuất để giải quyết vấn đề này như : thiết kế chuẩn Mainboard kiểu mới ( chuẩn BTX tạo nên khoảng không khí trống lớn nhất bên trong vỏ máy ) , sử dụng vỏ máy với những ống dẫn thông gió và hệ thống làm mát bằng chất lỏng .

 Nhưng những giải pháp vẫn còn đắt tiền và thường chúng ta không hay trả tiền cho việc đó . Những người lắp ráp và bán các loại máy tính sẽ gặp khó khăn khi trung hoà được vấn đề giá cả với hệ thống làm mát . Trong hầu hết các trường hợp khách hàng lại không thích thú với việc tăng giá cho hệ thống làm mát đắt tiền .

 Nhưng có giải pháp rẻ tiền và đơn giản để dùng cho bộ phận làm mát với những bộ vi xử lí mà có thể giảm vấn đề quá nhiệt đó là sử dụng mỡ chịu nhiệt . Chúng ta sẽ nói về vai trò của mỡ chịu trong quá trình tản nhiệt và làm thế nào để dùng nó được đúng và những sai lầm chúng trong những ứng dụng của mỡ chịu nhiệt .

 

  1. Dùng mỡ chịu nhiệt nào ?

 Thiết bị dùng để tản nhiệt bộ vi xử lí là bộ phận làm mát . Mỗi kiểu bộ vi xử lí yêu cầu kiểu bộ phận làm mát riêng cho nó . Việc dùng những bộ phận làm mát sai kích thước cũng như không đúng dẫn đến hiện tượng quá nhiệt của bộ vi xử lí .

 Nhưng chỉ một mình bộ phận làm mát không giải quyết được vấn đề quá nhiệt . Có một vấn đề khác trong câu chuyện này đó là việc : truyền nhiệt giữa bộ vi xử lí và bộ phận làm mát .

 Bằng kính hiển vi cho thấy phần tiếp xúc giữa bộ vi xử lí và bộ phận làm mát là không hoàn hảo . Sự không hoàn hảo tồn tại ở hai nơi một là bề mặt bộ vi xử lí và bề mặt của phần làm mát nên chúng không thể đạt được 100% tiếp xúc hoàn hảo .

 Cả hai bề mặt không hoàn hảo tạo nên những khe nhỏ không khí khi đặt chúng chồng lên nhau . Không khí là một chất dẫn điện kém ( nó có hệ số dẫn nhiệt là 0.026 W/m°K ) , như vậy khí nóng sẽ khó đi qua khi truyền từ bộ vi xử lí lên tới bộ phận làm mát và như vậy có thể gây nên hiện tượng quá nhiệt .

  \"\"

 

Hình 1 : Hình thức những khe không khí trong kết nối của bộ vi xử lí với phần làm mát

 Để giải quyết vấn đề này và cải thiện vấn đề tản nhiệt giữa bộ vi xử lí và bộ phận làm mát , chúng ta có thể cấp thêm mở chịu nhiệt đề lấp đầy khe không khí còn trống . Bằng cách như vậy , việc truyền nhiệt giữa bộ vi xử lí và bộ phận làm mát được dễ dàng hơn khi mỡ chịu nhiệt có hệ số dẫn nhiệt cao hơn không khí . Mỡ chịu nhiệt có thể mua được dễ dàng tại các công ty Tin học và tuyệt đối cần thiết , bên cạnh đó lại có giá thành rẻ .

 

  1. Mỡ chịu nhiệt

 Thành phần cơ bản của mỡ chịu nhiệt bao gồm Silicon và Oxide kẽm , nhưng nhiều mỡ lại có thành phần phức tạp như sứ và bạc ..., những vật liệu này hứa hẹn đạt được độ dẫn nhiệt hiệu quả .

  

\"\"

 

Hình 2 : Nhiều kiểu mỡ chịu nhiệt

 Cũng có những phần làm mát đã có sẵn mỡ chịu nhiệt ngay trên bề mặt khi xuất xưởng , cũng có khi sẽ có ống mỡ chịu nhiệt bên trong hộp CPU

  \"\"

 

Hình 3 : Quạt CPU cho Pentium 4 có sẵn chất chịu nhiệt

 

\"\" 

 

Hình 4 : Quạt CPU cho Athlon 64 với mỡ chịu nhiệt có sẵn

 Tất cả hợp chất trên có chất lượng tốt và có hiệu quả tốt hơn so với mỡ chịu nhiệt thông thường . Nếu bạn mua mỡ chịu nhiệt chất lượng cao hơn mà thành phần có chứa bạc thì hiển nhiên bạn phải làm sạch hợp chất ban đầu và gắn lớp mỡ mới lên trên để thay thế .

 Nhưng sử dụng hợp chất có sẵn từ lúc sản xuất trên bộ phận làm mát sẽ có một vài điều không thuận tiện :

 

  • Đầu tiên đó là chỉ sử dụng được một lần , có nghĩa là nếu bạn gỡ bộ phận làm mát ra vì một vài nguyên nhân nào đó thì bạn phải làm sạch hợp chất cũ và phải bôi  nó lại một lần nữa để gắn vào .
  • Một vấn đề khác là hợp chất ban đầu cũng là lớp keo gắn chặt phần tản nhiệt trên bộ vi xử lí làm cho bộ phận Quạt làm mát rất khó để gỡ .

 

Trong trường hợp bộ vi xử lí Intel sử dụng khe cắm 478 và AMD dùng khe cắm 754 và 939 thì phương pháp chung là kéo Quạt làm mát và bộ vi xử lí ra cùng một lúc  , đôi khi trong trường hợp đó lại làm hỏng bộ vi xử lí . Có một mẹo nhỏ là dùng máy sấy tóc để làm nóng lớp tản nhiệt ta một chút để làm nó tan ra nhưng không sử dụng máy sấy tóc quá lâu .

 Nhiều người tin rằng nhiều mỡ chịu nhiệt thì càng tốt . Nhưng nên nhớ rằng nhiều mỡ chịu nhiệt không dẫn điện nhưng lại có loại mỡ mà thành phần của nó chứa kim loại mà chúng lại tràn ra tới phần dẫn điện trên Mainboard sẽ gây hiện tượng đoản mạch và phá hỏng thiết bị .

 

  1. Tẩy lớp mỡ chịu nhiệt ban đầu và phủ lớp mỡ chịu nhiệt mới

 Trong trường hợp bộ vi xử lí hoặc quạt làm mát có mỡ chịu nhiệt ban đầu , bạn phải tẩy hết trước khi phết lớp mỡ chịu nhiệt mới vào để thay thế .

 

\"\"

  

Hình 5 : Bộ vi xử lí Sempron của AMD với lớp mỡ chịu nhiệt ban đầu .

 

Để tẩy sạch bạn cần dùng bổng sạch tẩm Isopropanol ( rượu Isopopyl ) , loại rượu tinh khiết không có nước , mua tại các cửa hàng hoá chất .

  

\"\"

 

Hình 6 : Làm sạch tất cả hợp chất còn lại trên bề mặt CPU

 Bạn cũng tương tự làm sạch trên bề mặt của Quạt tản nhiệt

 

 \"\"

 

Hình 7 : Bộ phận làm mát đã được làm sạch

 Sau khi đã được tẩy sạch lớp mỡ chịu nhiệt ban đầu , tiếp theo dùng đầu bông sạch thấm một miếng nhỏ mở chịu nhiệt mới lên bề mặt bộ vi sử lí và bộ phần làm mát .

 

 \"\"

 

Hình 8 : Lượng mỡ tản nhiệt phù hợp trên bề mặt CPU

 Lúc này chúng ta thật cẩn thận để lắp Quạt làm mát lên CPU .

 

 \"\"

 

Hình 9 : Quá nhiều mỡ tản nhiệt phủ lên phần cao su trên CPU gây hiện tượng chảy lớp sao su sau này và là không tốt .