Những điểm đáng nhớ ép xung (Overclock) CPU thông dụng - Phần 2

Intel Xeon LV 1.6D1 chỉnh sửa (Prestonia) , phát hành tháng 9/2003 , tốc độ chuẩn 1.6GHz , Overclock : 2.6 – 3.2GHz ( tăng gần 63%) .

 

Chạy ép xung hay được dùng trong những hệ thống  game . Một thời gian dài trước , chip QX9775 và Motherboard cao cấp Intel Skulltrail được cho là có hiệu suất làm việc cực cao tuy nhiên nhiều người ham mê công nghệ lại lựa chọn sử dụng Xeon LV 1.6 giá cả hợp lí.

Lõi Prestonia dựa trên Pentium 4 Northwood với SMP ( Symmetric Multiprocessing ) và Hyper-Threading . Với Xoen 1.6GHz dưới 200$ , dung điện áp 1.274v , những người chuyên chạy Overclock có đủ chỗ để nâng điện áp lõi hỗ trợ tốt hơn khi chạy ép xung . Tuy nhiên nâng tần số FSB giới hạn đạt 2.6GHz .

Đối với những ai ưu thích mạo hiểm hơn có thể đẩy tới mức giới hạn của công nghệ khi ấy và chạy Overclock tới tốc độ 3.2GHz nên bộ vi xử lí  2-lõi Xeon LV đã đứng đầu xét về hiệu suất làm việc với khoảng 700$ bao gồm CPU / làm mát / Mainboard và RAM .

Intel Pentium D 820 / D 805 , phát hành 26/5/2005 (D 820) / 12/2005 (D 805) , tốc độ chuẩn 2.8GHz / 2.66GHz , Overclock lên tới 3.5 – 4.2GHz ( tăng gần 26%) .

Pentium D 820 ra đời có sự không bình thường với hai lõi , được đóng gói kiểu MCM , rẻ tiền hơn nhiều so với loại rẻ nhất 2-lõi AMD Athlon 64 X2 241$ và thậm chí còn rẻ hơn 30$ so với Athlon 64 3500+ 1-lõi .

Pentium D 820 được cho là có hiệu suất làm việc khiêm tốn và không cạnh tranh được với Athlon 2-lõi nhưng được đánh giá là có chỗ để chạy Overclock với điện áp cao hơn cùng với giải pháp làm mát tốt hơn ví dụ như bằng nước .

Intel Pentium D 805 129$ xuất hiện được cho là cứu cánh cho những ai thích chạy Overclock nhưng ít tiền . Nó có tốc độ Bus giảm từ 200MHz xuống còn 133MHz với nhân tần 20x cũng đủ để có chạy ép xung dù cho không nhiều .

Pentium D 805 đi kèm theo Motherboard chipset 945P với RAM giá rẻ hứa hẹn có hiệu suất làm việc chấp nhận được khi xây dựng hệ thống  có giá khoảng 500$ .

AMD Opteron 144/146 (K8 Venus) , phát hành 2/8/2005 , tốc độ chuẩn 1.8GHz / 2.0GHz , Overclock 2.5 – 3.0 GHz ( gần 63% )

Dựa trên cùng cấu trúc như Athlon 64 San Diego , những chip Opteron 144 / 146 Socket 939 có giá tương ứng 125$ và 183$ có giá rất hợp lí so với Athlon 64 3700+ 329$ có tính năng tương tự và thậm chí còn tốt hơn so với chip FX-57 1000$ khi ấy .

Như tất cả những bộ vi xử lí  không  khóa nhân tần , khả năng chạy Overclock của Opteron 144 / 146 gắn liền với Motherboard sử dụng nhất là khi đi kèm với chipset nForce 4 . Với tần số HyperTransport có thể vượt quá 300MT/s tạo cơ sở để chạy Overclock cho những bộ vi xử lí chuyên dụng cho doanh nghiệp chưa từng thấy .

Khi đó tất cả những model Opteron có cùng khả năng chạy Overclock và có giá thấp nhất là 144$ đã nhanh chóng được sử dụng trong nhiều thị trường .

Intel Core 2 Duo E6600 ( Conroe ) , phát hành 27/7/2006 , tốc độ 2.4GHz , Overclock 3.0 – 3.0 GHz ( gần 45% ) .

Khi cấu trúc Intel Conroe đến trong tháng 7/2006 thì hầu hết sự chú ý lại tập trung vào X6800 không khóa nhân tần , nhưng lại có chip rẻ tiền hơn với đầy đủ tính năng ( 4MB Cache L2 ) lại xuất hiện . E6700 đã sẵn sàng cạnh tranh được với những chip Athlon 64 hàng đầu của AMD .

Với giải pháp làm mát chuẩn và điện áp ngầm định , người dùng có thể đẩy E6700 lên tới tốc độ 2.7 – 3.0 GHz . Nếu bạn có giải pháp làm mát tốt hơn , Motherboard ổn định hơn có thể đẩy tốc độ Bus hệ thống  vượt quá 400MHz thậm chí lên tới 450MHz . Như vậy tiềm năng Overclock của E6600 có khả năng chạy ngang ngửa về hiệu suất làm việc khi so sánh với 999$ X6800 và 799$ Athlon 64 FX-62 .

Intel Core 2 Quad Q6600 G0 Revision , phát hành 8/1/2007 (B0 Revision ) / 22/6/2007 ( G0 Revision ) , tốc độ 2.4GHz , Overclock 3.4 – 3.6GHz ( tăng gần 46% )

Core 2 Quad Q6600 đã đạt được những kỉ lục về tuổi thọ cũng như là hiệu suất làm việc , trở thành sự lựa chọn hàng đầu cho những tay chuyên ép xung muốn có bộ vi xử lí  4-lõi giá cả hợp lí .

Ban đầu Core 2 Quad có giá 851$ trong tháng 1/2007 , nhanh chóng giảm xuống 530$ trong tháng 5 và được sắp xếp lại giá còn 266$ trong tháng 7 khi mà Model chỉnh sửa G0 Revision được phát .hành .

G0 Revision có mức độ tiêu hao điện năng thấp hơn vì thế nó có khả năng chạy Overclock , kết quả là nhiều người đã đẩy bộ vi xử lí  này chạy tới tốc độ 3.4 – 3.6GHz .  Khi Intel đưa ra nền tảng  P35 giá cả phải chăng , giá của Q6600 còn lại 224$ trong tháng 4/2008 , giảm tiếp còn 183$ trong tháng 10 . Người dùng lúc đó càng có nhiều cơ hội sử dụng nó để chạy Overclock nhờ có giá thành lợp lí và đẩy lên tới tốc độ 3.6GHz bằng cách đặt FSB 400MHz và tỉ lệ nhân tần bằng 9 .

Intel Pentium Dual Core E2140 / E2160 , phát hành 3/6/2007 , tốc độ chuẩn 1.6GHz và 1.8GHz , Overclock 2.7- 3.2 GHz ( gần 89% ) / 2.9 – 3.5GHz ( gần 92% ) .

Dòng E2000 của Intel đánh dấu sự kết thúc của NetBurst Pentium D và sự thống trị của AMD trong thị trường giá rẻ . Dòng E2000 thực chất dựa trên dòng E4000 nhưng giảm một nửa bộ nhớ Cache và đẩy hiệu suất làm việc cao hơn nhờ FSB 200 MHz ( 800MHz ) nhưng họ lại không  loại bỏ khả năng chạy Overclock của lõi Conroe .

Người dùng có thể dễ dàng chạy Overclock tăng 50% bằng điện áp ngầm định nâng tốc độ Bus lên 300MHz trên những Motherboard rẻ tiền Intel P965 / P35 và với Motherboard dùng chipset NVIDIA 650i SLI cho phép nhiều sự lựa chọn hơn với RAM rẻ tiền hơn .

Bằng cách dùng giải pháp làm mát tốt hơn , thay đổi điện áp và một số may mắn trong bộ vi xử lí  có thể Overclock E2140 / E2160 gần 100% cung cấp hiệu suất làm việc gần mức của E6700 và lại có giá thành rẻ hơn .

Intel Core 2 Duo E8400 E0 Revision (Wolfdale-6M) , phát hành 7/1/2008 (C0 Revision ) / 18/7/2008 (E0 Revision) , tốc độ chuẩn 3.0GHz , Overclock 4.0 – 4.5GHz ( gần 41% ) .

E8400 C0 Revision ban đầu ngay lập tức đã được chào đón nhờ khả năng chạy Overclock với giả cả phải chăng . 5 tháng sau phiên bản E Revision đã được phát hành với nhiều sự cải tiến về điện áp làm việc và dễ dàng chạy được với tốc độ 4GHz .

E0 Revision có giá chỉ 149$ dùng được trên những Motherboard P45 và X48 và khả năng duy trì tốc độ Bus 500MHz ( FSB 2000MHz ) . Những hệ thống  tiếp tục chạy ổn định trong nhiều năm với tốc độc cao hơn 4GHz cho thấy chất lượng tốt cả về cấu trúc và Chipset .

Intel Core i7-920 , phát hành 17/11/2008 , tốc độ chuẩn 2.67GHz (Turbo 2.93GHz) , Overclock 3.5-4.0GHz (C0 Revision ) , 3.8-4.2GHz ( D0 Revision ) (gần 58%) .

Cấu trúc Nehalem mới và nền tảng  X58 hứa hẹn nhiều tiềm năng hơn so với những hệ thống  Core 2 LGA 775 đã tồn tại từ lâu . Trong khi đó Core i7-965 EE cao cấp nhất có giá 1000$ , đã rẻ tới 1/3 so với Core 2 QX9770 thì sự xuất hiện của Core i7-920 có giá thành rẻ hơn là sự lựa chọn hợp lí .

Core i7-920 C0 Revision cần yêu cầu điện áp làm việc cao hơn để có thể chạy được tới tốc độ 3.6GHz , tiếp theo model D0 Revision duy trì điện áp 1.26V để có thể đẩy lên tới tốc độ 4GHz thậm chỉ đạt được tới 4.5GHz khi tăng điện áp lõi tới gần 1.5V .

AMD Phenom II X2 550 Black Edition (Callisto) / X4 955 Black Edition (Deneb) , phát hành 1/6/2009 và 23/4/2009 , tốc độ chuẩn 3.1GHz / 3.2GHz , Overclock 3.7 – 3.9GHz ( gần 22% ) .

Phát hành cấu trúc K10.5 sửa đổi trong những tháng đầu của năm 2009 đánh dấu sự hồi sinh mạnh mẽ của AMD . AMD đã cho ra mắt những bộ vi xử lí  Black Edition với bộ phận nhân tần không khóa cho phép người dùng chạy Overclock không giới hạn .

Với giá 100$ 550 Black Edition lại có một giá trị khác đó là có chứa hai lõi đã bị vô hiệu hóa vì một lí do nào đó . Nếu chỉ vô hiệu hóa một lõi thì nó sẽ biến thành X3 720 BE và nếu mở được cả hai lõi bị vô hiệu hóa thì khi ấy 550 BE sẽ có hiệu suất làm việc còn cao hơn so với 955 BE 245$ mà chỉ nền tảng  Intel X58 mới cạnh tranh được .

Chính vì những lí do trên mà người dùng có thể không cần tăng tần số làm việc mà vẫn có thể chạy “ép xung” chip 550 BE .

Intel Core i7-2600K / Core i5-2500K , phát hành 9/1/2011 , tốc độ chuẩn 3.4GHz (Turbo 3.8GHz ) / 3.3GHz (Turbo 3.7GHz ) , chạy Overclock 4.6 – 5.0 GHz ( gần 49% ) .

Khi Intel thông báo giới hạn trên của bộ phận nhân tần xung nhịp và gần như không  thể Overclock Bus hệ thống  cho những bộ vi xử lí  Sandy Bridge tương thích với chipset Cougar Point và được quảng cáo như là sự kết thúc chạy ép xung trên những nền tảng  Intel . Như sự thực không phải như vậy khi mà 2500K và 2600K chạy Overclock cực tốt ngay cả với giải pháp làm mát thông thường chạy được ổn định áp xung tăng từ 30-50% .

Chình vì ưu điểm đó mà 2600K trở nên thông dụng chiếm tới 28% trong tất cả những bộ vi xử lí  được HWBot đánh giá trong năm 2011 và vượt qua cả CPU kế cận là 3770K trong năm 2012 . Với giá chỉ 216$ cùng với giải pháp làm mát bằng không khi hoặc bằng nước 2500K đã được sử dụng nhiều trong hệ thống  PC thông thường .

 

 Phần 1