Lịch sử của bộ vi xử lí đồ họa hiện đại - Phần 6

Chip NV30 lần đầu tiên được giới thiệu trong tháng Tám , cùng với khoảng thời gian Radeon 9700 , nhưng có vấn đề về kỹ thuật và tỉ lệ hỏng cao trong quy trình sản xuất 130nm Low-K của TDMS đã khiến cho NVIDIA bị thụt lùi .

Một số quy trách nhiệm cho NVIDIA không cung cấp đủ nhân lực vì đang phải tập trung cho chip NV2A trong máy chơi game Xbox cũng như cho chipset trên Motherboard .

Để hướng về phía trước , NVIDIA đã triển khai dự án cung cấp một số Chip dòng FX được IBM sản xuất theo quy tình Low-K 130nm FGS (Fluorosilicate glass) thông thường .

ATI đã làm mới lại dòng sản phẩm của mình trong tháng Ba bắt đầu bằng Radeon 9800 Pro trang bị GPU R350 , dựa trên R300 nhưng có một số cải tiến trong Cache Hyper-Z và lệnh nén .

RV350 và RV280 được ATI phát hành trong tháng Tư . RV350 dùng trong Radeon 9600 được sản xuất bằng công nghệ TSMC 130nm Low-K mà NVIDIA đang sử dụng . RV280 dùng trong Radeon 9200 được cho là đổi tên từ RV250 của Radeon 9000 hỗ trợ AGP 8x .

Cùng tháng đó ATI và Nintendo đã kí kết thỏa thuận công nghệ để trang bị GPU Hollywood cho máy chơi game Nintendo Wii . Trong tháng Tám Microsoft lại kí hợp đồng với ATI để trang bị GPU cho Xbox 360 .

\"hinh26\"

26. GPU Xbox 360 ( ATI C1/ Xenos )

3 tháng rưỡi sau kể từ khi phát hành FX5800 chẳng lấy làm vẻ vang , NVIDIA lại cho ra mắt NV35 khác để dùng trong FX 5900 và FX 5900 Ultra . Driver FX mới đã cải thiện đáng kể AA và AF gần đạt được bằng chất lượng của ATI . Tuy nhiên 5900 đã đạt được những gì mà 5800 không thể đạt được . Nó cạnh tranh với ATI Radeon 9800 Pro danh hiệu Card màn hình nhanh nhất với giá 499$ .

Đứng như dự kiến , trong tháng Chín ATI đã cho ra mắt 9800 XT cùng với driver hỗ trợ những trò chơi DirectX 9 nên tốt hơn sản phẩm tương ứng của NVIDIA bảo đảm ATI vững vàng với vị trí hàng đầu về hiệu suất cho tới khi kết thúc năm .

Radeon 9800 Pro vẫn duy trì trong thị trường chủ đạo còn FX 5700 Ultra 199$ chiến thắng trong phân khúc thị trường Card màn hình dưới 200$ .

Trong năm 2003 , ATI đạt lãi ròng 35.3 triệu USD sau khi thua lỗ 47.5 triệu USD trong năm 2002 . Thành công của ATI do bán được nhiều Card màn hình giá cao Radeon 9800 và Radeon 9600 . Trong khi đó NVIDIA chiếm tới 75% trong phân khúc thị trường giá rẻ DirectX 9 với sự hỗ trợ của FX 5200 .

Hiệu ứng DirectX 9.0 trên Radeon 9800 XT và 9600XT

Trong thời gian giữa tháng 9 và tháng 11 , XGI phát hành sản phẩm kế tiếp Xabre và được đối tên thành Volari với những sản phẩm V3 49$ tới Dual-GPU Duo V8 Ultra . Thực chất V3 được đổi tên từ Blade XP4 của Trident hỗ trợ DirectX 8.1 , còn những model còn lại như V5 và V8 được phát triển dựa trên SiS Xabre DirectX 9.0 trước kia .

Hầu hết những model của XGI đều dưới mức của các đổi thủ tương ứng , ngoại trừ V3 có hiệu suất tương đương với GeForce FX 5200 Ultra và Radeon 9200 . Duo V8 Ultra có giá cao hơn gần 20% so với Radeon 9800 Pro 128MB nhưng lại có hiệu suất làm việc thấp hơn Radeon 9600 .

Dòng XGI Volari sống lay lắt tới 8300 vào cuối năm 2005 nhưng ít nhiều vẫn có thể cạnh tranh được với Radeon X300SE/GeForce 6200 ở mức giá 49$ , cũng như với Z9/Z11 và XP10 . Cuối cùng thì XGI quay trở lại với SiS trong tháng 10/2010 .

Cũng có một công ty khác quay trở lịa với đồ họa máy để bàn đó là S3 . Sau khi bộ phận đồ họa bị bán sang VIA với giá 208 triệu USD kèm theo khoản nợ 60 triệu USD , họ đã tái cấu trúc để tập trung cho những dự án Chipset .

Card màn hình để bàn DeltaChrome được thông báo trong tháng Một nhưng đó làm đánh bóng cho S3 , nhưng model S4 và S8 đầu tiên phải chờ tới tháng 12 mới được bán lẻ . Những Card màn hình mới đều có những tính năng như hầu hết những sản phẩm hồi đó , 2003 , như hỗ trợ DirectX 9 , 16x FA , hỗ trợ HD 1080p và hỗ trợ màn hình chế độ màn ảnh rộng .

Thật không may người mua Card màn hình để bàn khi ấy chỉ quan tâm tới ATI và NVIDIA . Cả hai công ty này đều dẫn dắt người dùng trong những sản phẩm từ những phân khúc thị trường khác nhau với những mức hiệu suất và chất lượng hình ảnh khác nhau .

DeltaChrome đã bị thay thế bằng GammaChrome vào năm 2005 .

Trong năm 2005 , NVIDIA và ATI tiếp tục đưa ra những sản phẩm cạnh tranh với nhau . NVIDIA phát hành Card màn hình dùng VRAM GDDR3 đầu tiên của mình trong tháng Ba , FX 5700 Ultra , tiếp theo là dòng GeForce 6-Series với những model cao cấp 6800 : 6800 ($299), GT ($399), Ultra ($499) cùng với các biến thể đã được Overclock như Ultra Extreme ($549) để cạnh tranh với ATI X800 XT Platinum Edition .

6800 Ultra 512MB có mặt trong tháng Ba 2005 và bán với giá không thể tin được $899 , BFG đã đưa ra phiên bản Overclock có giá lên tới 999$ . Tầm trung là những Card màn hình dòng 6600 Series trong tháng Chín .

Những Card màn hình dòng NVIDIA 6000 Series hỗ trợ DirectX 9.0c , Shader Model 3.0 , bộ phận chạy và mã hóa bằng phần cứng PureVideo và hỗ trợ SLI , cấu hình đa GPU dựa trên những công nghệ sau khi mua lại 3Dfx .

\"hinh27\"

27 . SLI

3Dfx thực hiện bằng cách mỗi bộ xử lí chịu trách nhiệm quét những đường luân phiên nhưng NVIDIA lại điều khiển theo một vài cách khác . SLI của NVIDIA thực hiện việc chia tái tạo khung hình SFR ( Split Frame Rendering , mỗi GPU tại tạo nửa phần trên hoặc nửa phần dưới của khung hình ) , hoặc tái tạo khung hình luân phiên AFR ( Alternate Frame Rendering , mỗi GPU thực hiện riêng từng khung hình sau đó ghép lại ) . Trong một số trường hợp driver chỉ cần vô hiệu hóa SLI tùy thuộc theo những game hỗ trợ tính năng nào .

NVIDIA giới thiệu công nghệ SLI của mình trong tháng Sáu trong những Motherboard dùng chipset nForce 4 để cho phép cấu hình Multi-GPU nhưng phải chờ tới tháng 11 mới được đưa ra bán lẻ .

Những thử nghiệm khi ấy cho thấy những Card màn hình giá rẻ ( như 6600GT SLI có giá 398$ ) có thể tương đương về hiệu suất làm việc với một Card màn hình cao cấp nhất nhưng có độ phân giải thấp hơn và chất lượng hình ảnh thấp hơn . Tuy nhiên tại độ phân giải cao nhất với AA thì Card màn hình cao cấp 1-GPU vẫn chiếm ưu thế . Hiệu suất của NVIDIA SLI và ATI CrossFire thất thường đôi khi chạy rất hoàn hảo nhưng trong tình huống khác lại rất tệ .

Những đối tác OEM của NVIDIA đã ngay lập tức nhìn thấy cơ hội để tiếp thị , Gigabyte chào Card 660GT SLI ( 3D1 ) , tiếp theo là Dual 3D1-XL và 680GT (3D1-68GT) . Những Card màn hình này không chỉ yêu cầu chipset nForce4 mà còn yêu cầu Motherboard do Gigabyte sản xuất .

Những Card màn hình 1-GPU cao cấp , 6800 Ultra và X800 XT/XT PE , được đánh giá là khá cân bằng nhau giữa giá cả và hiệu suất làm việc . Nhưng không phải là không có vấn đề . X800 XT/XT PE đến trong tháng Năm nhưng bị hạn chế về nguồn cung , trong khi đó GeForce 6800 Ultra lại tới quá muộn trong tháng Tám và cũng chịu ảnh hưởng nặng nề về nguồn cung nên cả hai sản xuất cao cấp nhất của ATI và NVIDIA khi ấy đều bị thiếu hàng .

6800GT cạnh tranh với X800 Pro ở mức giá 399$ trong khi ấy 6600GT lại thoái mái không bị cạnh tranh trong phân khúc 199$ .

Sự cạnh tranh mạnh mẽ của NVIDIA nhưng lại không ảnh hưởng tới ATI khi ATI đã đạt lợi nhuận kỉ lục lên tới 204.8 triệu USD trong năm đó với doanh thu gần 2 tỉ USD .

Một sự kết hợp kì quặc khi mà 660GT phát hành dùng giao diện PCIe , đó là giao diện mà chỉ có trên Motherboard do Intel thiết kế cho bộ vi xử lí Pentium 4 . Nó đã đứng sau hiệu suất trong Game so với những giải pháp của AMD tương ứng đang dùng Bus AGP .

Tiếp sau dòng 6000-Series , NVIDIA bắt đầu đưa ra những model đầu tiên của dòng 7000 Series với GeForce 7800GTX , dựa trên GPU G70 được TSMC sản xuất bằng công nghệ 110nm . GeForce 7900 dùng GPU G71 do TSMC sản xuất bằng công nghệ 90nm cũng được NVIDIA nhanh chóng đưa ra .

G70 có kích thước lớn hơn NV40-45 , có thêm 80 triệu trong tổng số 302 triệu bóng bán dẫn , lượng Vertex Pipeline nhiều hơn 1/3 và Pixel Pipeline nhiều hơn 50% . Trong hầu hết các trường hợp G70 bị thay thế trong thời gian 9 tháng , còn GS và GTX512MB là 3 và 4 tháng tương ứng .

Ở mức thấp , 7100 GS tiếp tục dùng TurboCache ( khả năng dùng bộ nhớ RAM của hệ thống ) , mà được giới thiệu từ GeForce 6200 TC .

\"hinh28\"

28. NVIDIA GeForce 7800GTX

Vào thời kì cuối của chu kì sản phẩm , NVIDIA cho ra mắt GeForce 7800 GTX 256MB và được bán lẻ từ 22/6 với giá trung bình 599$ và tất nhiên giá bán ra thực tế còn cao hơn .

ATI đã giành lấy vương miện sản phẩm đồ họa 1-GPU bằng X1800 XT , nhưng NVIDIA đã đáp trả bằng 7800 FTX 512MB chỉ 35 ngày sau và nhanh chóng cướp lấy vị trí này .

Hai tháng sau , ATI phát hành X1900 XTX với mục đích đánh bật NVIDIA khỏi vị trí dẫn đầu . Kết quả của cuộc đua hiệu suất đồ họa của cả ATI và NVIDIA khiến cho cả hai sản phẩm tương ứng của hai công ty đều có mức giá 650$ với bộ nhớ Video 512MB cho phép chơi Game ở độ phân giải 2560x1600 32-bit màu và chất lượng hình ảnh cao hơn thông qua cổng kết nối Dual-Link DVI .

\"hinh29\"

29. Thiết kế CrossFire ban đầu của ATI dùng Cable ngoài

ATI thông báo công nghệ CrossFire nhiều Card màn hình của họ trong tháng Năm 2005 và đưa ra sản phẩm trong tháng Chín bằng việc cho ra mắt chipset Xpress 200 CrossFire Edition và bảng mạch chủ X850 XT CrossFire Master . Do dùng kết nối truyền dữ liệu TMDS 1-Link chỉ đạt được độ phân giải 1600x1200 @ 60Hz nhưng bị sớm thay thế bằng TMDS 2-Link cho phép đạt tới độ phân giải 2560x1600 .

Không như giải pháp SLI của NVIDIA truyền thông giữa hai Card màn hình giống hệt nhau bằng kết nối cầu , ATI dùng Card chủ với bộ thu TMDS , chấp nhận đầu vào từ Card phụ ( Slave ) với hệ thống nối ngoài và chip Xilinx .

Như NVIDIA SLI , CrossFire cũng dùng AFR (Alternative Frame Rendering) và SFR (Split Frame Rendering) , nhưng công nghệ tái tạo có tên gọi SuperTiling cung cấp hiệu suất làm việc tăng trong một số ứng dụng nhưng lại không làm việc với OpenGL và không hỗ trợ tăng tốc xử lí hình học . Cũng như SLI , CrossFire cũng gặp vấn đề về driver có nghĩa là hiệu suất làm việc tăng trong một số tình huống nhưng lại giảm trong một số vấn đề khác .

AIT dự định đưa ra thị trường những Card màn hình dựa trên GPU R520 , là sản phẩm đầu tiên hỗ trợ Shader Model 3.0 , trong khoảng thời gian từ tháng 6 và tháng 7 nhưng cuối cùng lại phát hiện ra lỗi hên bị chậm mất 4 tháng .

Đợt phát hành ban đầu X1800 XL/XT dùng lõi R520 , Card rẻ tiền X1300 dùng lõi RV515 bản chất chỉ có 1/4 Pipeline đồ họa của R520 , và X1600 Pro/XT dựa trên RV530 tương tự như RV515 nhưng có Shader / Vertex / TMU và ROP nhiều hơn .

Do sự chậm trễ của R520 và những sản phẩm dựa trên GPU này nên chỉ sau 3 tháng rưỡi đã bị thay thế bằng dòng X1900 dùng GPU R580 được TSMC sản xuất bằng công nghệ 80nm . Tiếp theo sau là RV570 ( X1650 GT/XT và X1950 GT/Pro ) , phiên bản thu nhỏ của RV530 trở thành RV535 tạo nên sức mạnh cho X1650Pro và X1300XT .

Doanh thu trong năm của ATI tăng kỉ lục lên tới 2.2 tỉ USD , cao nhất trong lịch sử của công ty ngoài ra còn bán GPU Xenos cho Xbox 360 , tuy nhiên lãi ròng lại giảm chỉ đạt 16.9 triệu USD .

Trong giai đoạn này bất kì Card màn hình nào xuất đi không dựa trên nền tảng NVIDIA hoặc ATI cũng được sự chú ý nhất định nhưng kém phần hấp dẫn . Ví dụ như S3 đại tu lại sản phẩm của mình để cho ra mắt lần đầu tiên trong tháng 11 .

Chrome S25 ( 99$ )và S27 ( 115$ ) hứa hẹn có hiệu suất làm việc tốt trong Game . Với mức giá trên S25 / S27 phải cạnh tranh với NVIDIA 6600/6600GT và ATI X1300Pro/X1600Pro tuy nhiên hai Card màn hình của S3 lại thua về mức tiêu thụ điện năng . Ưu thế này của ATI và NVIDIA đã được tận dụng trong thị trường giá rẻ và HTPC và đóng vai trò tích cực tiêu diệt dòng Chrome 400 / 500 của S3 .

Bên cạnh đó S3 lại có vấn đề về chi phí sản xuất nên lãi thu được từ những sản phẩm bán ra vô cùng nhỏ . Họ cần phải bán ra với số lượng lớn trong thị trường mà có tới hai kẻ mạnh đanh thống trị . Cuối cùng HTC đã mua lại S3 trong tháng Bảy 2012 với giá 300 triệu USD . Việc mua bán giữa HTC và S3 được phủ bóng lên bởi cuộc chiến pháp lí chống lại Apple .

NVIDIA và ATI tiếp tục cạnh tranh với nhau trong năm 2006 .

ATI đã mua lại Macrosynergy , có cơ sở thiết kế ở Thượng Hải và trung tâm kỹ thuật ở California và có một phần trước kia của nhóm XGI . Sau đó trong tháng Năm ATI lại mua BitBoy trong thương vụ trị giá 44 triệu USD .

Trong khi đó thử sức đầu tiên của NVIDIA khi chế tạo Card màn hình có 2-GPU trong tháng Ba , tiếp theo bước đi của ATI , 3dfx và XGI . 7900 GX2 ghép hai bảng mạch in lại làm một bản chất là hai Card màn hình 7900 GTX giảm tốc độ nối lại với nhau trên một bảng mạch in . Những Asustek không chờ đợi giải pháp 2-GPU của NVIDIA nên họ đã cho ra mắt Extreme N7800GT Dual ($900, số lượng 2000 chiếc), đo là tích hợp 2-GPU 7800GT lại với nhau .

Trong thị trường chủ đạo bán được số lượng nhiều thì 7600GT và GS chiếm ưu thế và tồn tại trong thời gian dài , còn ATI X1950 XTX và CrossFire là sản phẩm 1-GPU có hiệu suất làm việc cao nhất . X1900 XT và GeForce 7900GT cạnh tranh với nhau trong thị trường cao hơn so với 7600GT .

\"hinh30\"

30. ATI David Orton và AMD Hector Ruiz thông báo sáp nhập hai công ty lại với nhau

Sau 12 năm hoạt động độc lập , ATI đã bị AMD mua lại hôm 25/10/2006 với mức giá 5.4 tỉ USD trong đó 1.7 tỉ USD của AMD , 2.5 tỉ USD từ những tổ chức cho vay , 57 triệu cổ phiếu của AMD và 11 triệu cổ phiếu lựa chọn với giá trị 1.2 tỉ USD . Tại thời điểm đó khoảng 60-70% của doanh thu chipset tích hợp đồ họa của ATI từ những đối tác sản xuất Motherboard dựa trên nền tảng Intel .

Mục đích của AMD mua lại ATI để nhanh chóng áp dụng công nghệ GPU hơn là việc dùng 5.4 tỉ USD phát triển công nghệ dh của AMD . Lúc ấy mục đích của AMD là nhanh chóng giới thiệu Torrenza và kết hợp với dự án Fusion .

Hai tuần sau khi ATI bị mua lại , NVIDIA báo hiệu kỉ nguyên cấu trúc Shader hợp nhất cho đồ họa PC . GPU Xenos của ATI cho Xbox 360 đã giới thiệu cấu trúc hợp nhất cho máy chơi game video .

 

Phần 1 : Giai đoạn 1976 - 1995 : Những ngày đầu của đồ họa 3D thông thường

Phần 2

Phần 3 : Giai đoạn 1995 - 1999 : 3Dfx Voodoo là người thay đổi cuộc chơi

Phần 4

Phần 5 : Kỉ nguyên của NVIDIA đấu với ATI bắt đầu từ năm 2000 - 2006

Phần 7 : Sự xuất hiện của GPU để thực hiện những công việc thông thường - GPGPU

Phần 8

 

\"qcao\"