Với khả năng nâng cấp dễ dàng cho máy tính 486, Am5x86 của
Nhưng điều nổi bật nhất về Am5x86 là nó đã trở thành loại chip đầu tiên tận dụng thang đánh giá hiệu suất PR (PR – Performance Rating ) của
Ngày phát hành: 1995
Tốc độ xung nhịp: 133MHz
Hệ thống PR của
Sau khi khơi mào cuộc cạnh tranh bằng hợp đồng bản quyền chéo giúp dọn đường cho các loại chip nhái sau này, Intel quyết không lặp lại sai lầm này với dòng Pentium. Do đó
Ngay từ đầu, các vấn đề về mặt thiết kế đã buộc
Nhưng không may cho
Ngày phát hành: 1996
Tốc độ xung nhịp: 75MHz - 133MHz
Chữ ‘K’ trong K5 và các bộ xử lý sau đó của
Ban đầu được gọi là M1, Cyrix 6x86 tương thích cả về chân cắm lẫn điện thế với Pentium của Intel. Tuy nhiên nó không phải là sản phẩm nhái Pentium mà được thiết kế nguyên gốc, vì thế không thể tương thích 100% với Pentium.
Các bản ban đầu với 16KB cache đạt tốc độ kiểm định khá tốt, thường là vượt cả các chip Pentium đã overclock. Điều này khiến Cyrix quyết định áp dụng cơ thế đánh giá tốc độ Performance/Pentium Rating của riêng mình, mặc dù có hiệu suất xử lí các phép tính dấu phảy động FPU khá thấp.
Còn các bản sau này của 6x86 lại được đổi tên thành MII.
Ngày phát hành: 1996
Tốc độ xung nhịp: 80Mhz - 385MHz
Có ba phiên bản Cyrix 6x86 khác nhau: bản một hiệu điện thế ban đầu, bản tiết kiệm điện với nhân tách đôi, và bản khác hỗ trợ với tập lệnh
Tuy K5 là một sản phẩm mà
Ra mắt tháng 4 năm 1997, K6 đóng vai trò như vật thay thế cho
Ngày phát hành: 1997
Tốc độ xung nhịp: 166MHz - 300MHz
K6 sử dụng hệ thống đánh giá dựa trên PR Pentium II (PR2), nhưng thiết kế này cuối cùng cũng bị hủy bỏ.
Để cải thiện doanh thu, Intel đã chuyển cache L2 sang một chip cache ngoài, cache này có tốc độ bằng một nửa tốc độ của CPU – một điều Intel đã cố thực hiện bằng cách tăng gấp đôi dung lượng cache L2 từ 256KB lên 512KB đối với sản phẩm thấp nhất trong dòng Pentium II. Điều này không chỉ giúp hạ giá thành (
Từ quan điểm thiết kế thì
Thêm vào đó
Ngày phát hành: 1997 (Xeon trong năm 1998)
Tốc độ xung nhịp: 233MHz - 450MHz (Xeon 400MHz - 450MHz)
Mật danh của
Gặp khó khăn về tài chính, Cyrix cuối cùng được National Semiconductor mua lại vào năm 1997. Nó cũng thay đổi triết lý kinh doanh của mình bởi National Semiconductor quan tâm tới giá trị thị trường hơn là việc cố cạnh tranh trên thị trường cao cấp. Kết quả là Media GX, một bộ xử lý dựa trên Cyrix 5x86 với đồ họa tích hợp, mạch điều khiển bộ nhớ và mạch điều khiển PCI . Nó đi kèm theo với một chip có chứa mạch điều khiển
Ngày phát hành: 1997
Tốc độ xung nhịp: 120MHz - 300MHz
Bộ xử lý MediaGX chỉ có thể chạy trên những bo mạch chủ được thiết kế đặc biệt cho bộ xử lý cùng model.
Không biết bạn có còn nhớ WinChip hay đúng hơn là theo dõi những mối quan hệ mua bán sát nhập lằng nhằng giữa VIA, Cyrix, National Semiconductor,
Trong trường hợp này, Centaur Technology đã sản xuất và bán WinChip, một bộ xử lý sử dụng Socket 7. Khác với thiết kế bộ xử lý x86 truyền thống , Centaur sử dụng những gì họ biết về bộ xử lý RISC và tạo ra một con chip có số cổng nhỏ hơn và kích thước khuôn bé hơn. Đây là một thiết kế đơn giản và tiết kiệm điện, phù hợp với các công việc không đòi hỏi cao. Nó không có cache L2 nhưng có 64KB cache L1, hỗ trợ cả MMX và 3DNow!, nhưng cuối cùng bộ xử lý Celeron của Intel với giá thấp hơn và tốc độ cao hơn đã chấm dứt mọi hy vọng của Centaur về WinChip.
Ngày phát hành: 1997
Tốc độ xung nhịp: 180MHz - 250MHz
Centaur được bán lại cho
Intel đã phục vụ rất tốt thị trường máy chủ và máy tính cao cấp bằng hai dòng sản phẩm Pentium II và Pentium II Xeon, nhưng công ty này lại thiếu một loại chip bình dân nhằm vào thị trường PC giá rẻ . Vậy là Celeron, một loại chip có hiệu suất làm việc thấp hơn và giá cả thấp hơn nhiều đã xuất hiện lần đầu năm 1998.
Sau đó trong cuộc chơi x86, một số model Celeron thực sự trở thành sản phẩm phù hợp cho những người dùng mong muốn tiết kiệm chút tiền mà không phải hy sinh quá nhiều tốc độ, đặc biệt là với những ai sẵn sàng overclock, nhưng các Celeron đầu tiên dựa trên nhân Pentium II lại nhận được phản hồi khá thờ ơ từ nhóm người dùng thông thường . Một phần là do nó thiếu cache L2 – một yếu tố giúp tăng tốc độ. Sau đó Intel phát hành bản 128KB cache L2 và điều này đã giúp tăng 2 lần tốc độ so với bản không cache. Sự kết hợp giữa cache L2 đầy đủ tốc độ với khả năng chạy trên tốc độ ban đầu đã khiến chip Celeron thành công vang dội.
Suốt nhiều năm sau đó , dòng Celeron của Intel luôn đi kèm với các bộ xử lý chủ đạo của công ty này, và chip Celeron mới nhất được xây dựng trên cấu trúc Allendale với hai lõi .
Ngày phát hành: 1998
Tốc độ xung nhịp: 266MHz - 3.2GHz
Mendocino Celeron, còn được gọi là 300A, vô cùng nổi tiếng trong giới Overclock và có thể chạy ổn định ở tốc độ 450MHz.
Tiếp theo sự thành công của K6, AMD tung tiếp K6-2 vào năm 1998, đưa thêm một bộ phận xử lí lệnh MMX và một tập lệnh SIMD mới nổi tiếng với cái tên 3DNow! Điều này giúp
Sau này, AMD làm tương tự với K6-2+, thêm 128KB cache L2 và có quy trình sản xuất nhỏ hơn (180nm so với 250nm).
Ngày phát hành: 1998
Tốc độ xung nhịp: 233MHz - 50MHz
SIMD, còn gọi là 3Dnow!, là viết tắt của “Single Instruction , Multiple Data .” Nó còn được biết đến với cái tên “những lệnh vector – Vector Instruction”
Sản phẩm cuối cùng trong dòng K6 là K6-3, xuất hiện hồi đầu năm 1999 và là bộ xử lý Socket 7 cuối cùng được sản xuất. K6-3 không có nhiều thời gian tỏa sáng bởi Intel đã phát hành một bộ xử lý mới mang tên Pentium III chỉ vài ngày sau AMD.
Bản chất là một K6-2 với 256KB cache L2 và hơn gấp đôi số transistor (21.3 triệu so với 9.3 triệu), K6-2 ban đầu rất thành công nhưng rồi nhanh chóng bị lãng quên khi AMD phát hành dòng Athlon.
Ngày phát hành: 1999
Tốc độ xung nhịp: 350MHz - 570MHz
Mật danh của K6-3 là "Sharptooth" (Răng sắc).
Mọi thứ bắt đầu trở nên sáng sủa với Intel khi họ phát hành Pentium III năm 1999. Việc thêm tập lệnh SSD đã giúp họ xử lý tới 4 số dấu phẩy nổi chính xác đơn cùng một lúc. Pentium III cũng xử lý 3D, hình ảnh, nội dung và các ứng dụng multimedia tốt hơn so với Pentium II.
Sau này Intel phát hành thêm Pentium III Coppermine.
Tuy nhiên một chip
Còn với Pentium III Xeon, chip máy chủ này của Intel không khác mấy so với người anh em để bàn của nó, mặc dù PIII Xeons sau này có cache lớn hơn (tới 2MB) và hỗ trợ cấu hình 4 bộ xử lý.
Ngày phát hành: 1999
Tốc độ xung nhịp: 450MHz -1.4GHz
Máy Xbox ban đầu dùng một phiên bản của bộ xử lý Pentium III Celeron theo dạng Micro-PGA2.
Đây có thể coi là serie lớn nhất trong lịch sử CPU của AMD, và cũng là serie quan trọng nhất trong những năm gần đây của AMD. Dòng Athlon của AMD đã vượt qua tượng đài Intel và trở nên thành công đến nỗi ngay cả những khách hàng trung thành của Intel cũng phải đổ xô đi mua AMD lần đầu tiên trong đời. Dirk Meyer, người mà sau này được thăng chức lên CEO của AMD, đã lãnh đạo bộ phận thiết kế phát triển Athlon, ban đầu chỉ là một bộ xử lý với 512KB cache L2. Với tốc độ khởi điểm 500MHz, AMD đã đánh bại Intel và vươn lên ngưỡng 1GHz với bộ xử lý Athlon, một dấu mốc quan trọng vào thời điểm đó.
Cùng với thời gian, AMD cũng cải tiến Athlon trở nên tốt hơn, khởi đầu bằng Thunderbird. Phiên bản mới này có cache nhanh hơn cùng một số tính năng khác khiến nó cũng thành công không kém. Bộ xử lý này còn khơi mào cho Socket A (462) của AMD, một trong những socket bo mạch chủ thành công nhất mọi thời đại.
Ngày phát hành: 1999
Tốc độ xung nhịp: 500MHz - 1.4GHz
Athlon Thunderbird là sản phẩm thành công nhất của AMD kể từ Am386 10 năm trước đó. Trong tiếng Hy Lạp, Athlon có nghĩa là “cuộc thi.”