Intel thành công với Moorestown x86 trong cuộc chiến SmartPhone với ARM ?

Intel bắt đầu công khai về Moorestown trong năm 2007, do đó, sự ra đời chính thức của chip x86 SoC đầu tiên của Intel đầu tiên nhằm vào thị trường điện thoại thông minh đánh dấu sự kết thúc của một hành trình dài.

Sự xuất hiện của Moorestown cũng đánh dấu sự khởi đầu của cuộc hành trình khác, khi Intel chuẩn bị để đối mặt với ARM trong công cuộc giành chiến thắng về thiết bị cầm tay và những nhà  chế tạo Tablet bằng công nghệ  x86. Theo nhiều cách, đây là lần ra mắt  sản phẩm lớn nhất và quan trọng nhất của Intel kể từ khi giới thiệu Atom bản đầu tiên.

Sự ra mắt này không phải là một công bố sản phẩm, do đó, không có "tốc độ và thông tin" hoặc công bố giá. Thay vào đó, Intel sẽ trưng bày nguyên mẫu, cho biết một số thông tin về hiệu suất và năng lượng, và thông báo rằng Moorestown sẽ chính thức được biết đến như là series Atom Z6XX. Bởi vì sự tiết lộ này và xác nhận những thông tin về các chi tiết trước đó, tôi sẽ không dành nhiều thời gian nói lại các chi tiết cụ thể của việc công bố, bạn có thể nhận được thông tin từ thông cáo báo chí của Intel, được liên kết ở phần cuối của này bài.

Trong bài này, chúng ta sẽ làm một tóm tắt ngắn gọn về những điều cơ bản của Moorestown, và sau đó sẽ là một số các công bố cụ thể mà Intel đã làm cho nền tảng SmartPhone đầu tiên của nó.

\"\"

Bản đồ sơ bộ của Moorestown

 Hình ảnh trên cho thấy hai trong bốn phần chính của nền tảng Moorestown. Tại trung tâm của Moorestown là bộ vi xử lý ứng dụng chính là một SoC (System_on_Chip) có  thực hiện công việc theo một cách tuần tự , có nguồn gốc từ x86 Atom CPU và bộ vi xử lí đồ họa ( GPU ) PowerVR SGX từ công nghệ Imagination. Bộ vi xử lý ứng dụng, có tên mã là "Lincroft" và bây giờ chính thức được gọi là bộ xử lý Intel Atom Z6XX, là một phần được sản xuất trên quy trình 45nm của Intel có dòng dò rỉ thấp.

SoC này được thương mại hóa để có một chút hiệu suất và có mức độ tiêu thụ điện năng giảm nên làm cho SoC trở nên hiệu quả hơn

\"\"

SoC Lincroft gồm các khối chính sau đây:

  • Lõi CPU Atom: Cache dữ liệu 24K, Cache lệnh 32K, 512K L2.
  • Lõi đồ họa tích hợp GMA 600 có nguồn gốc từ PowerVR SGX , hỗ trợ : OpenGL ES 2.0, OpenVG 1.0, và DirectX 9.L. Tốc độ đồng hồ của GPU này đã được tăng gấp đôi so với những SoC của ARM mà cũng sử dụng nó.
  • Video Encode / Decode : mã hóa và giải mã Video
  • Hiển thị.
  • Bộ nhớ: DDR2-800 và LPDDR1-400.

Langwell PHC ( Platform Controller Hub ) được chế tạo dựa trên công nghệ 65nm của TSMC sử dung khối IP từ một số nguồn. Đây là một phần của nền tảng Moorestown mà các khách hàng TSMC sẽ có thể tùy chỉnh để phù hợp sản riêng của họ. PCH này có các khối chính sau đây:

·         Điều khiển hệ thống – System Controller

·         Xử lí hình ảnh : hỗ trợ Camera VGA và 5 MegaPixel , bộ xử lí tính hiệu hình ảnh riêng biệt .

·         Tăng tốc độ âm thanh .

·         Tăng tính bảo mật

·         I/O : USB 2.0 , HDMI …

·         SSD

Kèm với PCH là hai chip chính khác:

  • Briertown trộn tín hiệu IC: có một số chức năng, bao gồm một bộ điều khiển màn hình cảm ứng và giao diện một âm thanh, và nó cũng đóng một vai trò quan trọng trong quản lý điện năng của nền tảng bằng cách hỗ trợ kiểm soát điện năng dựa trên hệ điều hành cho SoC và PCH.
  • Bộ vi xử lý Baseband : dùng cho giao diện không dây thực tế, và nó cũng chứa phần cứng DSP ( bộ xử lí tín hiệu số )

Khi tính tới các chip bộ nhớ riêng biệt, mà đối thủ cạnh tranh như A4 của Apple đã tích hợp vào gói SoC, bạn đang nhìn vào năm chip tất cả cho nền tảng Moorestown. So sánh điều này với Snapdragon của Qualcomm, tích hợp hầu hết các chức năng này, bao gồm bộ vi xử lý baseband, vào một gói duy nhất. Năm chip của nền tảng Moorestown sẽ làm cho nó kém hiệu quả hơn và đắt hơn giải pháp ARM giá phải chăng và có tích hợp cao hơn.

Hiệu suất và điện năng: những con số lý tưởng

Intel cung cấp những số liệu về tuổi thọ  pin sau đây cho SmartPhone dựa trên một Moorestown 1.5GHz:

  1. Chế độ nghỉ : 21-23 mW (Intel tuyên bố 25 mW chế độ nghỉ với Snapdragon 1GHz). Điều này nghĩa là  10 ngày thời gian chờ với một pin 1500mAh
  2. Nghe nhạc : 120 mW; khoảng 2 ngày
  3. Xem Video 1080p : 1,1 W, hoặc 5 giờ (so sánh 10 giờ đối với các iPhone 3GS).
  4. Duyệt web qua Wi-Fi: 1.1W, hoặc ~ 5 giờ.
  5. Cuộc gọi 2G: 550 mW (8-10 giờ nói chuyện)
  6. Cuộc gọi 3G: 1.2W (4-5 giờ nói chuyện).

Tất cả các con số trên khá thông thường cho SmartPhone , đó là rất tốt. Nhưng tất cả đều có một điểm chung mà chúng ta sẽ nói tới trong giây lát.

\"\"

Về hiệu suất, đây là nơi mà Intel thực sự tuyên bố cho Moorestown. Quake 3 chạy trên Moorestown với tốc độ 100 khung hình / giấy (100FPS ) . Moorestown hoàn thành việc kiểm nghiệm với SunSpider trong một hai giây (so sánh khoảng 10 giây cho Snapdragon 1GHz). Các điểm SPEC mà Intel  cung cấp cho Moorestown so với các đối thủ cạnh tranh tạo nên  ấn tượng bằng nhau, và bạn có thể kiểm tra các kiểm nghiệm ra ở đây.

Nó vẫn không thực sự là một nền tảng SmartPhone

Nếu bạn so sánh số lượng tiêu thụ điện năng của Intel với hiệu suất của nó, bạn sẽ nhận thấy rằng không trùng khớp.

\"\"Intel không tiết lộ Moorestown dùng bao nhiều điện năng khi chạy Quake 3 tại 100FPS, hoặc khi nào thực hiện các kiểm nghiệm SunSpider JavaScript hai giây. Đó là bởi vì sự tiêu thụ điện năng trong những hoàn cảnh đó nhất định phải theo tiêu chuẩn của SmarPhone. Nói cách khác, miễn là bạn đang làm những việc không liên quan tới SoC chính  (ví dụ, nói chuyện, trạng thái nghỉ), hoặc sẽ cho phép bạn tắt tất cả nhưng vẫn làm việc một vài khối chuyên dụng (ví dụ, xem video 1080p , nghe nhạc), bạn có thể mong đợi có một cái gì đó gần giống một trải nghiệm điện thoại thông minh bình thường. Nhưng khi bạn sử dụng SoC chính như một bộ xử lý x86 thực sự ... Intel giữ im lặng về những con số điện năng, và điều đó là gần như chắc chắn bởi vì chúng rất đáng thất vọng .

Lý do về tỉ số điện năng / hiệu năng mà chắc chắn Moorestown không phải SmartPhone thực sự   là Intel dựa rất nhiều vào các cổng làm việc tiêu thụ điện năng nhiều trong các linh kiện và hỗ trợ nó bằng kỹ thuật tối ưu hóa điện năng không được đồng bộ từ ban đầu . Điều này có nghĩa rằng trong điều kiện lý tưởng, với hầu hết các bộ phận tiêu thụ nhiều điện năng và phức tạp của nền tảng hoặc bị tắt hoặc bị hạn chế , kết hợp với SoC có dòng dò rỉ thấp có nghĩa là Moorestown sẽ trông giống như là của một nền tảng tích hợp ARM đơn giản hơn. Tuy nhiên, khi bạn bắt đầu bật và mở khoá các phần của SoC có thể cung cấp các loại kết quả hiệu suất mà Intel chạy trên các buổi trình diễn của mình, việc sử dụng điện năng của Moorestown sẽ tăng vọt lên khi so sánh với lãnh địa của SmartPhone và đi vào khu vực tiêu thụ điện của Netbook.

\"\"Mức độ tham gia của hệ điều hành cần thiết để quản lý mức độ tiêu thụ điện năng động là có thật, và AnandTech mô tả một số nỗ lực thực sự mà Intel và Nokia đã làm khi chạy hệ điều hành MeeGo .

Trớ trêu hơn tất cả

Bây giờ khi hình ảnh Moorestown đã hiện đầy đủ, có một vài sự trớ trêu thú vị ở đây.

Mỉa mai đầu tiên là Intel, nhà sản xuất phần cứng tinh túy, đã có đầu tư đáng kể về mặt phần mềm của nền tảng này để làm cho nó cạnh tranh với các sản phẩm dựa trên ARM đơn giản hơn  và phần cứng đã được chắt lọc tính túy.

Sự trớ trêu thứ hai là sự phụ thuộc của Moorestown vào một nhóm phần mềm nặng đã được tối ưu hóa để dùng MeeGo, bất chấp thực tế là máy tính để bàn x86 có thể khởi động bất cứ điều gì.

Sự trớ trêu cuối cùng bắt nguồn từ thực tế là, không giống như ARM, Intel không cấp giấy phép thiết kế lõi của mình cho bất kì ai, do đó Moorestown vẫn là một nhà cung cấp đơn độc để cạnh tranh với các mẫu thiết kế như Cortex-A9 có sẵn từ nhiều nhà cung cấp và sáng chế. Kết quả là, trái ngược với sự có mặt khắp nơi của Chip x86 trong máy tính để bàn, Moorestown hóa ra lại là một cái gì đó thuộc về nền tảng di động, bạn thậm chí có thể coi nó hơi"đóng cửa" một chút- đọ sức với các hàng hóa "mở cửa" của cộng đồng ARM. Intel, nhà cung cấp phần cứng máy tính để bàn, đã đột nhiên trở thành một người cạnh tranh trong thị trường điện thoại di động.

Khái quát của tất cả những điều trên cho thấy Moorestown là bước đi vụng về của Intel vào một  thương hiệu mới: sản phẩm đầu tiên là không thực sự cạnh tranh, nhưng Intel sử dụng nó để đặt nền tảng, để thu được những bài học . Như vậy SmartPhone đầu tiên của Intel là Medfield 32nm vào năm 2011 có khả năng cạnh tranh hơn cả . Medfield sẽ kết hợp bộ vi xử lý ứng dụng và PCH trên một chip duy nhất, và sẽ không ngạc nhiên khi thấy SoC có tích hợp cả bộ nhớ . Trong tất cả, Medfield sẽ là một đối thủ cạnh tranh thực sự của ARM-và sau đó cuộc chiến sẽ bắt đầu , nhưng có tới khi ấy ARM không khoanh tay đứng nhìn .

 \"\"\"\"